Chương I
PHAN BÁ VÀNH – PHAN BÁ VINH
Đồng làng
Cốt Lâm đang chờ vào vụ cày ải, nên đám thợ cày ở đây được những nhà có ruộng
thuê mướn, trọng vọng cốt nhanh chóng cày vỡ đất cho thối gốc rạ, thành ra mỗi
vụ vỡ ải cũng là dịp kiếm chác của đám thợ này. Bất kể là ruộng nhà ai, từ đám
lý dịch, hương chức trong làng cho đến ruộng học, ruộng giáp, ruộng hậu cũng
đều cần nhanh chóng, mỗi buổi vác cày ra đồng, đều được đãi cơm rượu 3 bữa xênh
xang, thuốc xái đầy đủ, cộng thêm đấu gạo dắt vai mới mong họ mắc ách trâu mà
làm cho. Dưới cái nóng của trời, cộng thêm sự thôi thúc của thời gian đuổi vụ,
với tâm lý cẩu thả của người làm thuê đã khiến những đám ruộng trên đồng hoá lốc
chốc, nham nhở, chỗ cày chỗ bỏ, đại khái qua quýt, còn lổng chổng những gốc rạ.
Chiều đã
muộn, những tia nắng cuối cùng của ngày hạ còn cố đeo đẳng rọi vào thiêu đốt
từng xá cày trên mặt ruộng trắng xoá nước, toả ra cái nóng hầm hập. Phía cuối
cánh đồng, nơi lơ phơ mấy bụi tre gai, từng tốp nông phu đang tháo ách trâu, tranh
thủ cho chúng nghỉ ngơi ăn cỏ, rồi xúm lại bên nhau, kẻ nằm, người ngồi ngả nón
quạt lấy quạt để, rồi râm ran tán chuyện trên trời dưới bể.
Cơ trời vận nước vẫn vần xoay theo một chu kỳ
dịch chuyển nào đó mà làm nên bốn mùa, tám tiết, chí anh hùng chợt tỏa sáng
giữa đêm tối mới khiến người người chú ý, lưu tâm. Trong trận cướp phá Kim
Thành, đội nghĩa binh trại Giáp Sơn đã chạm trán cánh quân nội phủ, bị bao vây
ngặt nghèo, chỉ chờ bó tay chịu trói. Trước tình thế khốn cùng lui không được,
tiến không xong, giữa lớp lớp giáo mác trùng vây, chàng trai trẻ trấn Sơn Nam Thượng
vẫn điềm nhiên chỉ đạo từng toán nghĩa binh đang hoang mang mất hết nhuệ khí,
tập trung lại quanh mình, cầm chắc vũ khí giữ vững trận thế, rồi một mình một
kiếm tiến thẳng đến trước mặt viên phó tướng đang ngạo nghễ vung đôi chùy đồng trên
lưng ngựa. Những tiếng vun vút xé không khí của đôi trùy gai lập tức bổ xuống bao
vây, phủ kín xung quanh chàng trai, đến con ngựa chiến vốn quen xông pha trận
mạc là thế cũng phát hoảng lên trước những tiếng xé gió vun vút, trong ánh
đồng, ánh thép loang loáng quấn lấy nhau thành một khối cầu. Những người xung
quanh trận quên cả tình trạng nguy hiểm trước mắt, chỉ biết trợn mắt há mồm
ngạc nhiên trước lối đánh không cân sức đang diễn ra giữa trận.
Viên dũng
tướng triều đình với lợi thế trên mình ngựa, liên tiếp bổ những thế chùy gia
truyền xuống đỉnh đầu đối phương những tưởng chỉ vài đường cơ bản sẽ đập nát
bét sọ tên giặc cỏ nhãi nhép, mặt còn lún phún đám lông tơ phía dưới mình. Nhưng
càng tấn công ông lại càng hoang mang trước lối đón đỡ nhịp nhàng, uyển chuyển
từ đối phương, trái hẳn lại những nhát bổ, đâm, vạc với sức mạnh ghê hồn của
đôi tay viên mãnh tướng trọn đời sống trên mình ngựa, đã giết chết hàng trăm
đối thủ bằng những nhát trùy thôi sơn, là những đường gươm lấp lóa, nhanh lẹ
tỏa hào quang vờn bay bao phủ, đón đỡ, né tránh hóa giải sức mạnh của đôi trùy
đồng, bảo đảm cho thân thể anh ta như đang bọc kín trong lòng quả bóng sắt.
Một nhát chùy
lệch đường đập mạnh vào mông con ngựa chiến khiến nó đau đớn quỵ xuống, viên
kiêu tướng chới với giữa không trung rồi rơi đánh huỵch xuống đám cỏ ven đường,
quả trùy còn lại vừa bị hất lên cao vút đang đà giáng xuống giữa mặt kẻ ngã
ngựa. Chân tay viên tướng khi lâm trận mạnh mẽ là thế, sau cú ngã bất ngờ bỗng
trở nên bất động, rời rã. Thế là hết, viên tướng già chỉ kịp nghĩ vậy rồi nhắm
mắt đón chờ khoảnh khắc quả trùy rơi xuống kết liễu số phận mình...
Đám người
xung quanh tưởng như đã biết được kết cục cuối cùng của trận đánh bỗng trở lên
nhốn nháo, tình thế đã đảo lộn hoàn toàn, phía bị bao vây đang dùng ý chí dồn
sức mạnh vào đôi cánh tay các nghĩa binh đang nắm chặt đốc gươm, chờ phút giây
lâm trận. Đám người bao vây nhìn thấy chủ tướng vừa ngã ngựa nên hoang mang,
hàng ngũ rối loạn, trận thế có cơ đồ tan vỡ.
Nhanh như
cắt, một đường kiếm lóe sáng như tia chớp xẹt tới giữa chiều hoàng hôn, quả
trùy đồng nặng hàng chục cân đang thẳng hướng lao xuống bị lưỡi kiếm chém xẹt
qua, mất phương rơi, lao chếch sang phía bờ cỏ và đậu xuống cách đầu vị tướng ngót
nửa mét. Viên dũng tướng của triều đình thoát chết trong gang tấc, bàng hoàng
ngồi dậy ngó sững mặt chàng trai, như để ghi nhớ cho kỹ nét mặt của kẻ đã cứu
mình thoát khỏi lưỡi hái tử thần trong gang tấc, rồi hạ lệnh thu quân. Đám
nghĩa binh vui mừng ùa vào ôm lấy chàng trai của mình, người đã dũng cảm đối
đầu với viên phó soái đang dưới trướng tướng quân Nguyễn Hạnh nổi tiếng một thời
Tây Sơn nay thất thế đành ra giúp triều Gia Long.
Hữu xạ tự nhiên hương, sau trận chạm trán với
quân triều đình, toán nghĩa binh rút về sơn trại, tuy không hoàn thành mục đích
của vị đầu lĩnh đề ra, nhưng niềm tự hào về trận chiến thắng đối thủ trong tình
huống hoàn toàn bất lợi đã khiến họ quên đi tất cả, chẳng e ngại, họ ồn ào
huyên náo tán tụng chiến công, tìm ra những pha đánh đẹp nhất, hay nhất để thổi
thêm vào những yếu tố kỳ bí, biến nó thành những câu chuyện nửa hư, nửa thực,
rồi bô bô kể lại cho nhau nghe, khiến vị đầu lĩnh khi nghe cũng thấy lạ lùng,
khó tin và không giấu nổi vẻ bất ngờ trước sức chiến đấu ngoan cường của kẻ thuộc
hạ tuổi trẻ tài cao. Ngay lập tức, ông ra lệnh cho thủ hạ triệu Phan Bá Vành
lên gặp mặt và ra lệnh toàn sơn trại tổ chức ăn mừng chiến công vừa qua.
Không như
điều ông vẫn hình dung về kẻ thuộc hạ dưới trướng mình, vị đầu lĩnh tỏ ra hoàn
toàn bất ngờ khi hội kiến. Ấn tượng khiến ông khó quên ở con người trẻ tuổi có
vóc dáng của một con gấu mun đầy hoang dã là đôi mắt to, sáng lấp lánh của trí
lực. Từ khuôn mặt vuông vắn, rắn chắc, toát ra vẻ hiên ngang của một đấng
trượng phu, rõ khí phách kẻ đội trời đạp đất. Con người này hẳn không chịu bó
buộc trong vòng sơn trại với vài ba vụ đánh cướp lẻ tẻ đâu... ông thầm nghĩ... Trấn
dinh Hải Dương từ thời Gia Long thứ 4, đã di dời từ Cẩm Giàng về Hàm Giang, sẵn
ưu thế quân sự, ngược lên là núi cao, rừng rậm, xuôi xuống là sông sâu, biển
lớn, lọt giữa là giải đồng bằng trù phú, phù hợp cho những cuộc chiến quy mô
lớn, tốc độ hành quân cao, phát triển lực lượng nhanh, nên sơn trại của ông ở
Giáp Sơn, rất gần dinh trấn. Khi động đến triều đình, chỉ cần một vài cánh quân
ào đến, chắc hẳn toàn bộ sơn trại của ông sẽ bị triệt hạ ngay lập tức. Biết vậy
nhưng vị đầu lĩnh cũng đành thúc thủ tại chỗ bởi tuổi của ông đã khá cao, trong
đám thuộc hạ thân cận chỉ rặt những kẻ võ biền vũ dũng, chỉ đâu đánh đấy, tuyệt
không có kẻ nào chí lớn xứng đáng gánh vác trách nhiệm của bậc đại trượng phu ở
đời. Nay được con người phi thường này về phò giúp, hẳn ý trời muốn phát triển
cơ đồ của ông nên một nấc mới chăng.
Trầm ngâm
suy nghĩ, rồi ngước sang quan sát chàng trai đang đứng thi lễ trước mặt, lòng
vị tướng già dâng lên nỗi niềm cảm hoài, trắc ẩn. Một nhân tài trí dũng vô
song, nếu chỉ biết bằng lòng với cuộc sống nơi đây thì thật uổng phí, đáng tiếc.
Nhưng những hoài bão lớn thời tuổi trẻ của ông vùn vụt trôi qua là bài học lớn
cho bất cứ kẻ nào muốn vươn lên xứng danh đại trượng phu sống giữa trời đất mà
không cảm thấy tủi hổ với các bậc tiên hiền, có được Phan Bá Vành bên mình, ông
sẽ thoát khỏi nỗi ám ảnh thường niên của sự lo lắng thái quá trong việc kiếm
tìm người thay thế kế tục giữ quyền chỉ huy sơn trại. Với tài năng võ nghệ
thiên bẩm, cùng tấm lòng nghĩa hiệp, nhân đức của bậc trượng phu, Phan Bá Vành
ắt sẽ làm rạng danh sơn trại, duy trì lâu dài được những hoạt động bảo vệ chính
nghĩa mà từ khi lập nên sơn trại này ông đã theo đuổi. Nhưng tuổi trẻ thường
bồng bột dễ mắc sai lầm, chỉ một quyết định vội vã sẽ dẫn tới chuỗi tai họa
khôn lường cho mình và cho tất cả những nghĩa binh nơi đây, nhất là giai đoạn
này, khi Gia Long đã thắt chặt được bộ máy cai trị, chính quyền nhà Nguyễn đã
cắm rễ quá sâu vào chiếc ngai vàng mà vị vua trẻ tuổi Quang Toản vì nông nổi,
hèn yếu đã để vuột mất khỏi tầm tay, xóa bỏ hết mọi công nghiệp của tiên đế
Quang Trung dày công gây dựng xây đắp. Đội nghĩa binh của ông dù có mạnh mẽ đến
đâu, chiến đấu dũng mãnh đến mấy cũng không đủ sức chống lại cả vương triều,
thế tộc nhà Nguyễn. Hơn nữa khi nhìn những người dân nghèo sa cơ thất thế tìm
đến với ông cầu cứu sự che chở, ông cũng chỉ đành thở dài bất lực. Sơn trại này
chỉ có thể cho họ chỗ trú ẩn tạm thời, chứ không thể cho họ cuộc sống bình an,
không thể đảm bảo được cho họ sự yên ổn tự do làm ăn trọn cuộc đời, bởi những
nghĩa binh trong sơn trại chỉ cần tỏ ra có những hoạt động chống phá triều đình
một cách ráo riết, lập tức sẽ bị cô lập và bị san phẳng, hàng trăm nghĩa sĩ,
cùng gia quyến sẽ không còn chốn nương thân, chỉ giây phút sẽ biến thành tội
phạm triều đình khó bề tìm chốn dung thân dưới gầm trời này.
Chọn Phan Bá
Vành làm người kế tục sự nghiệp chấn hưng sơn trại là lựa chọn sáng suốt, nhưng
vị tướng già vẫn băn khoăn một lẽ, với tài trí của Bá Vành thì sơn trại này có
cơ hội tồn tại bền lâu, những nghĩa binh lỡ thời sa cơ sẽ có chốn nương náu dài
lâu. Nhưng chỉ vì những điều nhỏ nhặt ấy sẽ làm hỏng cả sự nghiệp của Bá Vành,
bởi ông biết trong con người chàng trai vùng ven biển ấy còn ẩn chứa cả gánh
trách nhiệm lớn lao giải cứu muôn dân thoát khỏi sự bóc lột, đè nén của đám vua
tôi nhà Nguyễn. Ông hiểu chỉ có những người có khí phách hiên ngang như chàng
trẻ tuổi này mới đủ tầm đối kháng, tranh đoạt vương vị với triều đình hiện tại.
- Ta biết
anh theo ta đã lâu, những điều ta và các chiến hữu ở đây còn trăn trở đêm ngày
chắc anh cũng rõ. Anh là người xứ lạ, theo về đây cũng như người trong nhà, nay
ta mời anh lên tất có thiển ý, không biết anh có thể giúp ta giải nỗi băn khoăn
bấy lâu đè nặng trong lòng hay không? – vị tướng cất tiếng hỏi.
- Thưa đầu lĩnh, tôi bỏ quê xa, mẹ già, em dại
tới đây theo ông luyện tập võ nghệ, ngoài ý thích bay nhảy cho biết đây biết đó
của tuổi trẻ, tôi còn mang trong lòng một mối ưu tư, những mong sớm được gặp
ông để trình bày cho tỏ cái dạ của mình, nhưng cơ hội được diện kiến ông chưa
đến. Nay lại được ông cho gọi đến đây, cũng là dịp may mắn lớn trong đời, lẽ
nào tôi lại từ chối giúp những việc ông cần khi sức của tôi có thể đảm đương
được, xin ông chớ ngại.
- Vậy mới
xứng mặt nam nhi chứ - vị tướng già cất tiếng cười sảng khoái, rồi đột nhiên lớn
tiếng hỏi – Anh thấy sơn trại của ta thế nào?
- Thưa đầu lĩnh, sơn trại này chỉ phù hợp với
những ai muốn lánh xa thế sự, tìm chốn ẩn cư cầu mong cuộc sống nhàn tản, tự
tại làm vui thôi.
- Khá khen
cho óc quan sát của anh – vị tướng ngưng cười - tôi muốn anh chỉ giáo đôi chút
về chiến lược phát triển mai này của nó kia.
- Trấn Hải
Dương có địa hình, địa thế phù hợp cho các trận đánh quy mô lớn, tiến triển
nhanh bởi lối giao thông hành binh theo hai đường thủy bộ đều thuận tiện, khi
tác chiến có thể cơ động tiến thoái. Nay phủ Kinh Môn cận sát trung tâm trấn,
tuy có thiên thời, địa lợi, nhờ tổ sơn An Phụ, núi Kính Chủ với động Dương Nham
cao hút tới trời, sức chứa đến ngàn quân tốt cho phòng thủ cục bộ, Phía
tây có sông sâu ngăn cách đất Chí Linh,
phía Bắc dòng chảy tới Đông Triều, phía Nam tới tận huyện Kim Thành, phía Đông
dòng chảy ra Bạch Đằng tới bể Đông, lòng sông ở phía Đông tuy hẹp mà sâu, nước
tuy chảy xiết nhưng không ngăn được chiến thuyền của triều đình, quân trong sơn
trại có đông cũng không thể huy động chặn đứng các cửa sông. Chính những điều
ấy là nguyên nhân chính làm cản trở tướng quân khi muốn lựa chọn đất làm thế
phát triển lâu dài.
- Thế đất
của sơn trại ta là vậy, nhưng ta vẫn giữ được nhiều mối quan hệ tốt với các
quan nội triều trụ cột, việc bị dồn vây đánh ép tất không thể xảy ra, những
điều anh nói có thực sự đáng lo ngại không?
- Dựa vào
các vị quan nội triều để duy trì hoạt động cho sơn trại là việc tốt, nhưng đó
chưa phải là thượng sách. Từ trấn Hải Dương tới kinh thành Phú Xuân đường xá xa
xôi, liệu một vị tướng lãnh mệnh vua đi tiễu trừ loạn đảng, có chờ đợi khớp phù
từ tay những vị quan trụ cột triều đình kia rồi mới phát binh tiến công kẻ địch
trên chiến trường không? Hơn nữa tin tức từ đây đưa vào, đến tay các vị thân
quan thì ngoài này chúng ta đã bị họ hốt sạch sẽ rồi, còn gì mà cứu cánh đây.
- Vậy theo
anh còn cách nào cứu vãn được tình trạng ấy? Lẽ nào lại di dời sơn trại đi tìm chốn
nương thân mới... Vị tướng thở dài.
- Tôi chỉ là
một anh nông phu nói năng thô thiển, được ngài quan tâm lắng nghe không trách
cứ, dám đâu không thổ lộ hết tâm huyết của mình ra cho được. Ngay từ khi quyết
định theo ông, tôi đã muốn đem lời hơn lẽ thiệt bàn về điều lợi hại, được mất
của chiến lược phát triển dài lâu cho sơn trại ra trình bày cùng ông. Theo
những tin tức tôi thu thập được thì tiềm năng phát triển sơn trại chúng ta hiện
nay còn hạn hẹp, cả về tài lực và vật lực. Nếu mở rộng lãnh địa hoạt động,
tuyển thêm và tổ chức huấn luyện đội ngũ chiến đấu cho các nghĩa binh mới,
chúng ta cần phải có nguồn kinh tài dự trữ và nguồn lương thực dự phòng thật
dồi dào.
- Ruộng đất
và các nguồn cung cấp lương thực cho sơn trại có bấy nhiêu, chỉ đủ duy trì cơ
số quân hiện tại, mở rộng lãnh địa và phát triển rộng thêm là điều ta hằng theo
đuổi, và cũng là mục đích lớn trong đời ta, nay tuyển mộ thêm nghĩa sĩ tất kéo
theo nhiều phiền toái, kinh động đến triều đình, ta e không ổn... Vị tướng già âm
trầm nghĩ ngợi, những điều Phan Bá Vành đưa ra đều sâu sát với tình hình hiện
thời, nên có sức thuyết phục lớn đối với ông.
- Từ thuở các
bậc tiên hiền dựng gây vương nghiệp đều ỷ sức dân, nương tựa vào trong dân gian
mà thành nghiệp lớn, Chúa Tiên trên đường lánh nạn Trịnh Kiểm, xin vua Lê cho
vào trấn thủ bờ cõi Thuận Hóa, đã biết dựa sức dân mở rộng lãnh địa về phương
Nam, con cháu đời đời sau nối nghiệp chúa hết lòng thờ phụng triều Lê, nay Gia
Long ỷ thế chính trị trong nước rối loạn, mượn thế nước suy đồi nổi lên đuổi Lê
diệt Nguyễn (Tây Sơn) tự lập vương xưng đế tại Phú Xuân, ỷ sức mình coi thường muôn
dân, nay đầu lĩnh muốn phất cao ngọn cờ đại
nghĩa, lại chỉ vì những khó khăn trước mắt của sơn trại mà hạn chế kẻ ứng
nghĩa, bỏ qua những kẻ nông phu không tuyển thì việc mưu cầu nghiệp lớn tất khó
thành...
Càng nghe vị
tướng già càng cảm thấy mình sẽ bị thuyết phục hoàn toàn bởi cách diễn đạt mộc
mạc, dễ hiểu nhưng rất minh bạch của chàng trai vùng ven biển. Dựa vào nông phu
mà làm cuộc nổi loạn, là việc mạo hiểm, không thể một sớm một chiều mà huấn
luyện họ thành những chiến binh, hơn nữa ở cái tuổi gần đất xa trời ông không
thể mạo hiểm thêm một lần nữa mặc áo giáp nhảy lên mình ngựa xông pha trước hòn
tên mũi đạn. Nếu để Phan Bá Vành thay ông lãnh đạo, sơn trại tất phát triển
vững vàng, nhưng chắc chắn không thể đến mức mưu cầu được nghiệp bá vương. Qua
cuộc sơ kiến, ông đã cảm nhận rõ, đằng sau nét mộc mạc, chân chất của chàng tá
điền nghèo khổ là tài năng tổ chức lãnh đạo thiên bẩm, lộ rõ khí chất của một
bậc đế vương giữa chốn trần ai. Anh ta cần phải có thời gian và đất sống để dụng
võ, phủ Kinh Môn nhỏ hẹp sẽ làm mai một tài năng của chàng trai trẻ này trong
cuộc mưu sinh nghiệt ngã giữa chốn núi xanh rừng thẳm. Phải giúp anh ta rèn
luyện bản lĩnh của một vị thống soái trước toàn quân... Vị tướng già đã nghĩ
vậy.
Cuộc gặp gỡ
với vị tướng già đã làm thay đổi hoàn toàn nhãn quan và cách đánh giá, tiếp cận
với những vấn đề mang tính thời cuộc trong tư duy chàng trẻ tuổi đang náo nức
muốn tìm cho mình một cơ hội để thử sức với đời. Những vấn đề mà vị tướng già
còn bế tắc, băn khoăn chưa tìm ra hướng giải quyết, và sẽ được định hướng giải
quyết trong một ngày không xa, nay được Phan Bá Vành cẩn trọng ráp mối ngẫm
ngợi, suy tính, rồi cân nhắc lợi hại hơn thiệt. Những ý nghĩ nung nấu tâm can
chàng trẻ tuổi vẫn là hình ảnh của người nông phu tiều tụy, xanh xao đêm ngày
năn nỉ xin gia nhập đội nghĩa binh trong sơn trại, nhưng đều bị các quản binh
từ chối thẳng thừng. Điều này tuy đã được vị tướng già giải thích thấu đáo
nhưng chàng trai xứ Sơn Nam Thượng vẫn thấy ẩn sau nó có điều gì bất nhẫn, đó
không thể là giải pháp tối ưu cho một thủ lĩnh tụ nghĩa khởi binh lựa chọn. Bài
học lịch sử của nhà Nguyễn Gia Long nhờ sức nông phu mà dấy nghiệp vương bá, rồi
thành nghiệp đế cũng phải bắt đầu từ việc mở mang lãnh địa, lôi kéo giành giật
lấy những kẻ nông phu nghèo khổ, không thước đất trong tay theo mình. Trong
cuộc lẩn trốn vòng truy sát của Trịnh Kiểm mà vị tổ Nguyễn Hoàng tự nhiên có được
vùng đất Thuận Quảng, lại khéo biết tụ hợp, tổ chức đám nông phu phiêu dạt lưu
tán theo về mà phát triển hùng cứ cả cõi Đàng Trong. Trải các đời chúa Nguyễn
kế tiếp, vẫn nhờ tận dụng sức lực của dân phu mà mở mang thêm bờ cõi, lãnh địa
về Phương Nam
hình thành vững chắc nền công nghiệp, tạo ra lượng lương thực dư thừa nuôi cuộc
chiến tranh phân chia quyền lực với họ Trịnh hàng trăm năm. Nay phủ Kinh Môn
chỉ biết dựa vào dãy An Phụ, Kính Chủ làm thành cao, lấy sông sâu làm hào, nguồn
lương thực tự cung tự cấp, nghề canh nông lại bị hạn chế nhiều bởi đất đai
trồng cấy có hạn, không thể đủ sức chấn hưng công nghiệp theo hướng vị tướng
già hằng đeo đuổi, ngần ấy điều bất lợi tất sự nghiệp lớn khó thành. Hơn nữa khi
xét về thực lực, vị tướng già tuổi cao sức yếu không còn khả năng gánh vác công
việc đại sự, lại phải căng mình lo toan giữ gìn mạng sống cho hàng trăm nghĩa
binh chí khí đã giảm sút nhiều sau các cuộc biến động chính trị xã hội, những
chiến hữu từng một thời vào sinh ra tử, đang cùng vợ con bìu ríu cốt mong có
nơi nương tựa, sinh kế làm ăn lâu dài thì những việc đại sự khác không thể
tránh khỏi bị ảnh hưởng. Tìm ra phương hướng giải quyết cho một mớ bòng bong
những vấn đề ấy khó khăn khôn xiết, bản thân vị tướng già và các chiến hữu của
ông cũng không thể giải quyết trọn vẹn toàn bộ cho thấu đáo, câu trả lời và đầu
mối gỡ duy nhất phải chăng chính là tiếng rên xiết trước cuộc sống bế tắc của
những người nông phu tiều tụy, nghèo đói, đang vùng vẫy tuyệt vọng trước cái
chết dần dần kéo đến bởi nạn thuế khóa, sưu dịch, phu phen phát ra từ sau lớp
vương miện óng ánh sắc vàng của vị hoàng đế Gia Long... Chàng trai trấn Sơn Nam
Thượng mơ hồ hình dung ra từ sâu thẳm trí óc của mình câu trả lời như thế.
Tác giả vui lòng cho tôi xem toàn bộ tiểu thuyết được k ạ
Trả lờiXóa